Lịch sử Chiến_khu_Quỳnh_Lưu

Sau khi đánh chiếm Ninh Bình, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị theo kiểu thống trị trực tiếp. Công sứ Pháp kiểm soát các công việc của các quan lại trong tỉnh. Bên cạnh bộ máy cai trị hành chính, thực dân Pháp cho thiết lập các đồn bốt, trại lính ở tỉnh lỵ Ninh Bình, Phụng Công, chợ Ghềnh, Phát Diệm, Nho Quan. Các huyện đều có lính cơ, các xã có tuần đinh. Tỉnh lỵ Ninh Bình có nhà lao và bộ máy cảnh sát do một chánh cẩm người Pháp cầm đầu.[2]

Cuối năm 1927, tại thôn Lũ Phong (Quỳnh Lưu, Nho Quan) chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đầu tiên của tỉnh Ninh Bình được thành lập do Lương Văn Thăng làm bí thư. Từ khởi điểm phong trào cách mạng ở Quỳnh Lưu, tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên phát triển nhanh sang các huyện Yên Mô, Gia Viễn, Gia Khánh. Ngày 24/6/1929, chi bộ Đông Dương cộng sản Đảng thôn Lũ Phong (Quỳnh Lưu - Nho Quan) được thành lập do Lương Văn Thăng làm Bí thư. Đêm ngày 6 rạng ngày 7/11/1929, Lương Văn Tụy, con trai Lương Văn Thăng, mới 15 tuổi cùng với Nguyễn Văn Hoan thực hiện nhiệm vụ cắm cờ đỏ búa liềm mang dòng chữ "ủng hộ Xô - Nga, Xô - Nga vạn tuế" trên đỉnh núi Non Nước ở tỉnh lỵ Ninh Bình để kỷ niệm và ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga.

Năm 1938, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình họp Đại hội đại biểu lần thứ nhất tại thôn Đồi Dâu (Sơn Lai, Nho Quan) với sự tham dự của đại biểu cơ sở Đảng ở các huyện Gia Viễn, Nho Quan, Gia Khánh và Yên Mô. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 3 uỷ viên. Ông Đinh Tất Miễn được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ Ninh Bình.

Năm 1943, quân Nhật kéo vào Ninh Bình, đặt cơ quan đại diện bên cạnh toà công sứ Pháp. Nhật lập ra "Liên đoàn thóc gạo" và đặt nhiều mỏ cân ở thị xã Ninh Bình, Phát Diệm, Nho Quan để thu thóc gạo. Riêng thị xã Ninh Bình có 17 mỏ cân. Các hương lý, lính lệ, cai ký, địa chủ trong tỉnh được cấp thẻ "Tiếp tế cho nhà binh" để đến các chợ, các làng thu thóc gạo, nông sản của nông dân.

Chiến khu Quỳnh Lưu thành lập ngày 3/2/1945 và là căn cứ cách mạng của xứ ủy Bắc Kỳ. Chiến khu Quỳnh Lưu là một căn cứ cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Nhật, nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, nối liền Tây Bắc, Bắc Trung Bộ với đồng bằng Bắc Bộ. Sau khi thành lập, cơ sở cách mạng này có ảnh hưởng lớn đến phong trào đấu tranh ở Ninh Bình. Đến hết tháng 4/1945, khu giải phóng mở rộng ra các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Gia Khánh. Ngày 25/8/1945, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Ninh Bình do đồng chí Văn Tiến Dũng làm chủ tịch ra mắt tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng trong toàn tỉnh.

Để bảo vệ căn cứ cách mạng này, Xứ ủy Bắc Kỳ và Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đã tổ chức nhiều đội tự vệ chiến đấu, tiêu biểu là Trung đội Giải phóng quân. Các lực lượng vũ trang ở đây đã làm cho đối phương "nhiều phen kinh hoàng", đỉnh cao là hai ngày 15/3/1945 và 2/4/1945, quan lại ở Phủ Nho Quan đưa lính về đàn áp phong trào chống thu thuế đều bị quần chúng bao vây đánh trả quyết liệt.

Hiện nơi đây vẫn là một địa bàn quan trọng về quân sự với 2 đơn vị bộ đội đóng quân là Lữ đoàn 241 (Quỳnh Lưu) và Trung đoàn 202 (Phú Lộc).